Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ 1. Nguyễn Công Trứ (1778-1859) quan chức, nhà thơ, một hiện tượng độc đáo và phức tạp trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, thế[r]
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ Như vậy bên cạnh con người xã hội - phận sự, con người hành động, dấn thân, cống hiến là con người cá nhân - “nhân sinh quý thích chí”. Đấy là hai dạng thái làm người hữu chí - một sự phân thân,[r]
tìm hiểu Nguyễn Công Trứ, giới nghiên cứu cũng đã từng bàn đến tư tưởng của ông nhưng chủ yếu người ta xét nó dưới góc độ tâm lý, xã hội học hoặc đạo đức học. Có thể chiết ra chỗ này là tư tưởng Nho giáo, chỗ kia là tư tưởng Lão - Trang, chỗ kia là tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc[r]
thiết cho người tài tử trong ông ở thời đại bấy giờ. Chính vì thế mà thơ ngôn chí hay thơ hành lạc đều cùng một khẩu khí ngang tàng, bất cần, phóng túng. Con người hành đạo hầu như luôn cùng song hành với con người hành lạc trong nhà nho Nguyễn Công Trứ đã có thể b[r]
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ “Hành” hay “tàng”, “vô vi” hay chủ động theo đuổi chí nhàn dật - hành lạc? Hay có thể lựa chọn song hành cùng lúc nhiều hướng ứng xử? Quyết định hướng nào là do sự lựa chọn của từng người, bởi đi[r]
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ Con người ấy có không gian tồn tại cũng rất độc đáo, vừa bình thường, vừa rất khác thường. Vũ trụ, càn khôn, bốn bể, giang sơn, vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc trước hết đây là môi trường chứn[r]
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ “Tư tưởng tạo ra cái nhìn” (M. Bakhtin) hay nói cách khác, cái nhìn sẽ bị “sai khiến”, bị “điều phối” bởi tư tưởng. Với tư tưởng sáng tạo chủ đạo và đầy tâm đắc ấy, Nguyễn Công T[r]
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ 1. Nguyễn Công Trứ (1778-1859) quan chức, nhà thơ, một hiện tượng độc đáo và phức tạp trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, thế n[r]
3. Triết lí hưởng lạc -Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trương con người có quyền hưởng lạc. Ông xếp nó trở thành một mục trong chương trình sống lí tưởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con người chỉ được hưởng lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Con người chỉ có thể thảnh[r]
hùng, cho người hành động. Nội dung hành lạc thời kì đầu cũng rất thanh sạch; du lãm trong thiên nhiên với thơ, với rượu, với đàn.-Về sau, ông lại nâng quan niệm hành lạc ấy lên thành một triết lí sống. Ông kêu gọi mọi người ăn chơi, hành lạc:Nhân sình bất hành lạcThiên tuế diệc vi thương.Nội[r]
chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”! “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên x[r]
trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi nămchốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nàoông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho t[r]
phụ cái núi nầy”. Nên khi cụ vừa về hưu, đi qua chỗ ấy, dân xã Đại Nại nhớ lời, ra đón rước xin cụ lưu ở lại, vì thế nay cụ sửa sang chùa ấy lại mà lưu cư luôn. Thường khi các quan chức trong kinh ngoài quận đi qua về lại, ai cũng lên núi vào chùa, hỏi han thăm viếng, dấu xe chân ngựa lúc nào cũng t[r]
Nguyễn Công Trứ, cây đàn văn học Việt Nam có đủ dây vũ dây văn, mà ông chính là sợidây vũ cường tráng luôn luôn rung lên những âm sắc nam nhi sảng khoái làm phong phúcung đàn văn chương đất nước" [53; tr.290]. Thật vậy, sáng tác văn chương NguyễnCông Trứ đã tạo được những[r]
tồn tại cụ thể... đã cho ta thấy, một bản lĩnh cứng cỏi, một cách sống không màng đến thế sự. Tuy vậy,Nguyễn Công Trứ vẫn là một con người thủy chung như một trong đạo lý "vua - tôi”, trong sứ mạng củamột con người dùng tài năng bản lĩnh của mình để phục vụ quốc gia.Tóm lại, dù[r]
làm người đọc nhớ đến câu tục ngữ “Anh em như thể tay chân”. Trong thơ Nguyễn Công Trứ (1770 - 1858) cũng có nhiều thành ngữ, tục ngữ. Về điểm này, chỉ xin nêu một dẫn chứng là bài “Trò đời”: Một lưng một vốc kém chi môCho biết chanh chua khế cũng chuaĐã chắc bữa trưa chừ[r]
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi! Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…Đặt trong tương quan Nho - Phật - Đạo, nhà nghiên cứu Trương Tửu xác định thái độcầu nhàn và thoát tục của Nguyễn Công Trứ:“Đã đi tới chỗ chủ trì quan niệm hư ảo về nhân sinh t[r]
cũng “vẫy vùng cho phỉ ức", cũng “làm nên tiếng lẫy lừng đâu đấy tỏ”. Cái “Ngất ngưởng", cái “nếtương” của Nguyễn Công Trứ còn ở chỗ: ông ống rất thực với mình, thực với người, thực với đời. Các thinhân xưa thường viết về những gì phổ quát, tập trung vào thiên chức của kẻ sĩ; cò[r]
của thơ ca trữ tình nói riêng, đặc biệt là của thơ trữ tình thời trung đại.Vậy, “cái Tôi trữ tình” là gì? Đó “là sự thể hiện một cách nhận thức vàcảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thểvà thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo[r]
II- Đọc hiểu văn bản 1- Sáu câu đầu : * Thái độ sống ngất ngưởng khi làm quan - Con người đầy bản lĩnh, thái độ sẵn phong cách ngất ngưởng của Nguyễn được thể hiện như thế nào? Tại sao Nguyễn tự nhận mình là tay “ngất ngưởng”? - Hs thảo luận, làm việc theo nhóm - Gv tổ chức định hướng[r]