trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi nămchốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nàoông cũng bình thản như ngọn gió x[r]
3. Triết lí hưởng lạc -Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trương con người có quyền hưởng lạc. Ông xếp nó trở thành một mục trong chương trình sống lí tưởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con người chỉ được hưởng lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Con người chỉ có th[r]
chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”! “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên x[r]
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.Tổng kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi làtrách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ông đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cáchxuất sắc, sánh được với những danh tướng thời[r]
phụ cái núi nầy”. Nên khi cụ vừa về hưu, đi qua chỗ ấy, dân xã Đại Nại nhớ lời, ra đón rước xin cụ lưu ở lại, vì thế nay cụ sửa sang chùa ấy lại mà lưu cư luôn. Thường khi các quan chức trong kinh ngoài quận đi qua về lại, ai cũng lên núi vào chùa, hỏi han thăm viếng, dấu xe chân ngựa lúc nào[r]
song khác tục, Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử đếch ra người (Câu đối đùa sư) Giọng điệu và ngôn ngữ thơ Nguyễn Công Trứ cũng khá là đa sắc. Nhiều lúc đầy nghịch ngợm, hóm hỉnh (đặc biệt bài Bỡn tình nhân của ông trở nên như một hiện tượng nghệ thuật thú[r]
những tác phẩm đậm phong cách viết văn thơ của mình. Nhưng khi xem xét đến cái ngông củaNguyễn Công Trứ từ thời đại ngày nay ta vẫn nhận ra những hạn chế trong phóng cách sử dụng cáingông của ông, nó vẫn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nho gia và chủ nghĩa của bản thân ông,[r]
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi! Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…Đặt trong tương quan Nho - Phật - Đạo, nhà nghiên cứu Trương Tửu xác định thái độcầu nhàn và thoát tục của Nguyễn Công Trứ:“Đã đi tới chỗ chủ trì quan niệm hư ảo về nhân[r]
Lâu nay người ta vẫn cho rằng thơ văn Nguyễn Công Trứ là mộtkhối mâu thuẫn lớn; thực ra nó rất thống nhất, rất nhất quán. Cáingất ngưởng trong thơ ông là sự định hình một tính cách, một bảnlãnh trong cuộc sống, trong sáng tạo nghệ thuật. Cái ng[r]
tồn tại cụ thể... đã cho ta thấy, một bản lĩnh cứng cỏi, một cách sống không màng đến thế sự. Tuy vậy,Nguyễn Công Trứ vẫn là một con người thủy chung như một trong đạo lý "vua - tôi”, trong sứ mạng củamột con người dùng tài năng bản lĩnh của mình để phục vụ quốc gi[r]
Cái ngông của Nguyễn Công Trứ nhìn từ thời nay Nói đến Nguyễn Công Trứ là nói đến hai tư cách: một vị khai quốc công thần và một nhà thơ. Với tư cách một nhà thơ, ông có công lớn trong việc đưa lại tiếng nói cho thể ca trù, làm cho nó[r]
Bài viết của chúng tôi nhằm làm rõ nguyên nhân hình thành tư tưởng, nội dung cụ thể của tư tưởng, sự vận dụng tư tưởng vào hành động của Nguyễn Công Trứ, từ đó đánh giá những đóng góp và mặt còn hạn chế trong tư tưởng “Lập thân kiến quốc” của ông.
Nhà Nho Nguyễn Công Trứ với Phật giáo 1. Khác với phần đông các danh nhân dưới thời phong kiến, Nguyễn Công Trứ (1778-1859) thành danh khá muộn màng. Vốn là người thông minh, hiếu học song sau nhiều lần thi trượt, phải đến năm Kỷ Mão (1819), khi đã ngoà[r]
Nguyễn Công Trứ là sản phẩm của lịch sử - xã hội Việt Nam cuối TK XVIII - nửa đầu TK XIX, thời kỳ mà chế độ phong kiến Nho giáo về hình thức còn nguyên vẹn, nhưng thực chất mọi thứ đều rạn vỡ và sụp đổ bộ phận. Nguyễn Công Trứ sống giữa một thế giới rạn vỡ và sụp đổ ấy, nhưng ông không sụp đổ.
Trờng trung học cơ sở Đề khảo sát chất lợng giữa học kì ii Nguyễn Công Trứ Môn: Toán 6 ( 90 phút làm bài ) I. Trắc nghiệm khách quan. ( 3 điểm)Khoanh tròn chỉ một chữ cái đứng trớc câu trả lời đúng.1. Kết quả phép tính (-1)2.(-2)3 là:A. 6 B. -6 C. -8 D.82. Kết quả phép tí[r]
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài Hàn nho phong vị phú là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: Chí nam nhi, Chí khí a[r]
Nhà Nho Nguyễn Công Trứ với Phật giáo Đô tự nhân tâm tố xuất lai. Bát khang trang chẳng chút chông gai, Cùng nghiêng ngả một dòng Hà Lạc. Trong nhật dụng sao rằng đạo khác, Cái luân hồi chẳng ở đâu xa. Nghiệp duyên vốn tại mình ra, Nơi vuông tấc đủ thiên đường[r]
thành Nam lều một căn No nước uống thiếu cơm ăn Con đòi trốn dường ai quyến Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăm Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải Góc thành Nam lều một căn.Sau khi đại thắng quân Minh.Lê Lợi xây dựng một vương triều đầy quyền lực,[r]
hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu. Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc: - Thưa, con xin đối là“Trong buồng ông Trung ấp bà Trung” ạ! - Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở thì tất nhiên ph[r]
hai thứ ngất ngưởng.Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:Kìa núi nọ phau phau mây trắng,Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái[r]