Lý do chọn đề tài. Ngay từ thời sơ khai, con người đã có những tín ngưỡng-tôn giáo riêng của cá nhân, những tín ngưỡng đó giúp con người nương tựa về mặt đời sống tinh thần. Người theo thiên chúa sẽ luôn tin tưởng và một lòng thờ kính Đức Je-su, người theo đạo Hindu sẽ tôn thờ thần Vishnu, người[r]
Khi suy nghĩ đã trở nên chín chắn hơn, thái tử Siddhattha đã thoáng thấy những nỗi thống khổ của thế gian. Như kinh điển nói, ngài đã chứng kiến bốn cảnh tượng: đầu tiên là một người bị suy yếu với tuổi già, hoàn toàn không còn tự lực được nữa; thứ hai là cảnh tượng của một người chỉ còn[r]
Thế giới quan và nhân sinh quan trên của Phật giáo đối với người Việt đầu thời Bắc Thuộc, lúc còn đang tin ở sức mạnh của ông Trời, tin ở quyền năng của thần núi, thần sông, v.v… còn đang trong xã hội nguyên sơ và khép kín, thì đó là một hiện tượng xa lạ. Thế giới quan nhân sinh qu[r]
Trên phương diện địa lý, tư tưởng nầy bắt nguồn từ xứ An-Đạt-La thuộc Nam-Ấn-Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma-Ha-Bát-Nhã, phát xuất từ Đại-Chúng-bộ. Trong kinh Bát-Nhã có đoạn Phật dự ký: “Sau khi Như-Lai niết-bàn, kinh nầy được truyền về phương nam, rồi từ đó lưu ch[r]
Với Phật giáo nói chung là lên tới cõi Niết Bàn, nơi tịch diệt, nơi không còn biến hoá, không còn sướng vui cũng như khổ đau; với Tịnh Độ Tông là về được nước Phật, là sang tới Tây Phươn[r]
Với Phật giáo nói chung là lên tới cõi Niết Bàn, nơi tịch diệt, nơi không còn biến hoá, không còn sướng vui cũng như khổ đau; với Tịnh Độ Tông là về được nước Phật, là sang tới Tây Phươn[r]
Việc nghiên cứu triết học Phật giáo trên cơ sở những văn bản hệ thống được giữ lại trong các bản dịch Trung quốc đã chiếu luồng sáng mới vào những vấn đề thế giới quan Phật giáo được biết ở Âu châu, đồng thời đặt ra một loạt những vấn đề mới mà cho đến nay vẫn còn chưa được đưa ra trong các công trì[r]
Con người có ý thức đầu tiên là người Hômôsapiêns (người thông minh) sống cách đây khoảng 10 vạn năm khi khai quật mộ táng của người Hômôsa-piêns, các nhà khoa học thấy rằng người chết được chôn ở tư thế như cái thai trong bụng mẹ, nằm nghiêng, tay chân khép vào thân, đầu được dấu dưới m[r]
ch ủ y ế u mà chúng ta ph ả i ghi nh ậ n n ế u mu ố n hi ể u rõ b ả n ch ấ t c ủ a Ph ậ t giáo. N ế u không chúng ta s ẽ hi ể u sai l ạ c b ả n ý c ủ a Ph ậ t giáo. Ph ậ t giáo nguyên th ủ y, vì th ự c hành nhi ề u gi ớ i đ i ề u, nên b ố i c ả nh c ủ a lý lu ậ n, m ớ i nhìn có v ẻ nh ư là[r]
Khi chuyển hóa tâm mình, _ _một người_ • _8 phát triển lòng tự tin và ước mong điều tốt cho tất cả mọi người, hoặc_ • _9 hạnh phúc về những gì mà người khác đã đạt được và bất kỳ điều gì[r]
- Diệt đế: Nguyên tắc: đưa ý thức trở về trạng thái ban đầu, tĩnh mịch, vô biên hòa nhập với một nửa nó đánh mất là vô thức.là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt…,[r]
Mật Tông (hay còn gọi là Mật giáo) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Trong lịch sử phật giáo Ấn Độ, mật tông là giai đoạn hậu kỳ trong quá trình phát triển của phật giáo Đại thừa Ấn Độ.[r]
Biến đổi của Phật giáo ở Việt Nam trong phát triển bền vững, Biến đổi của Công giáo ở Việt Nam trong phát triển bền vững, Biến đổi của Tin Lành ở Việt Nam trong phát triển bền vững, Biến đổi của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam trong phát triển bền[r]
tam giác đều để phân biệt với các loại tam giác khác (có ba cạnh ho ặc ba góc bằng nhau). Tuy nhi ên, v ới những khái niệm rộng, không còn khái ni ệm n ào r ộng hơn nữa (ph ạm tr ù) thì có m ột cách định nghĩa độc đáo là đặt khái niệm đó trong quan hệ với kh[r]
Khi bước vào tuổi tám mươi, nhận thấy con đường giáo hóa đã viên mãn, đức Phật cùng chúng tỳ kheo du hành về thị trấn Kusinàra, ở đây Ngài đã hóa độ cho vị đệ tử cuối cùng là Subbadra, đồng thời cũng tuyên bố nhập niết bàn. Trước khi từ giã cõi đời, Phật cho phép các tỳ kheo nêu lên những thắ[r]
I- PHẬTGIÁO, MỘTHIỆNTƯỢNGTÔNGIÁOVÀTRIẾTHỌCCỦADÂNTỘC. Sự giao lưu giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ cái thế riêng biệt của tâm lý, tư tưởng trong từng dân tộc làm cho tâm lý và tư tưởng đó hoà vào cái chung của khu vực. Việt Nam cũng ở trong một quá trình như[r]
ti ếng của phái Y ên T ử. Thế lực lan rộng trong triều đ ình và gi ữa nhân gian, m ột ơng vua đ ã t ừng đánh bại cuộc xâm lăng của nh à Nguyên. M ột ơng vua đ ã đem hồ b ình th ịnh trị về cho nhân dân , m ột ơng vua như thế đi xuất gia sẽ gây n ê[r]
Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo Việt Nam (LA tiến sĩ)Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo Việt Nam (LA tiến sĩ)Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo Việt Nam (LA tiến sĩ)Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo Việt Nam (LA tiến sĩ)Đặc[r]