Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ 1. Nguyễn Công Trứ (1778-1859) quan chức, nhà thơ, một hiện tượng độc đáo và phức tạp trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, thế nhưng l[r]
Lâu nay người ta vẫn cho rằng thơ văn Nguyễn Công Trứ là mộtkhối mâu thuẫn lớn; thực ra nó rất thống nhất, rất nhất quán. Cáingất ngưởng trong thơ ông là sự định hình một tính cách, một bảnlãnh trong cuộc sống, trong sáng tạo nghệ thuật. Cái ngất ngưởngấy là của ri[r]
một quá trình nhận thức lâu dài, không thể coi là dễ dàng với một nhà nho gạo cội như Nguyễn Công Trứ. Trong nhiều bài thơ viết về một thời “hoạn hải ba đào”, Nguyễn Công Trứ sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm nhận thức, suy tư, suy xét, xét đoán trước lý tưởng h[r]
trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi nămchốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nàoông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho t[r]
tồn tại cụ thể... đã cho ta thấy, một bản lĩnh cứng cỏi, một cách sống không màng đến thế sự. Tuy vậy,Nguyễn Công Trứ vẫn là một con người thủy chung như một trong đạo lý "vua - tôi”, trong sứ mạng củamột con người dùng tài năng bản lĩnh của mình để phục vụ quốc gia.Tóm lại, dù[r]
hùng, cho người hành động. Nội dung hành lạc thời kì đầu cũng rất thanh sạch; du lãm trong thiên nhiên với thơ, với rượu, với đàn.-Về sau, ông lại nâng quan niệm hành lạc ấy lên thành một triết lí sống. Ông kêu gọi mọi người ăn chơi, hành lạc:Nhân sình bất hành lạcThiên tuế diệc vi thương.Nội[r]
đem chiếu ứng chữ “kiến tính” với “suất tính” và cho rằng chúng có nội hàm tư tưởng, nội dung và ý nghĩa như nhau. Nói khác đi, chúng có tính tương đồng, nghĩa là “kiến tính” của Phật giáo cũng giống như “suất tính” trong Nho giáo!? Trên thực tế, “kiến tính” có nghĩa là thấy rõ được Phật tính trong[r]
3. Triết lí hưởng lạc -Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trương con người có quyền hưởng lạc. Ông xếp nó trở thành một mục trong chương trình sống lí tưởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con người chỉ được hưởng lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Con người chỉ có thể thảnh[r]
ngưởng ngông cuồng; ghê tởm cái xã hội phong kiến đầy gian dối, lọc lừa, đổi trắng thayđen, biết mình đi nhầm đường mà không tìm được lối thoát, đành tỏ ra bằng một thái độkhinh bạc ngạo mạn, thách thức công nhiên mọi thứ dư luận”(4)…Nhưng rồi cái điều phải đến sẽ đến. Đã tới lúc Nguyễn
BÀI CA NGẤT NGƯỞNGNguyễn Công TrứI. TÁC GIẢ:1/ Cuộc đời: - Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Xuất thân trong một gia đình nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống trong nghèo khó[r]
Đây là giai điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác đây là chiến thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người ta không còn là mình nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn Công Trứ cáo[r]
2. Chất thơ, chất nhạc hài hòa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt cú. 3. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cựphách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên mộ[r]
ngang tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ. 4. SẴN GÁNH CÀN KHÔN GHÉ THẲNG VAI Vào một ngày hè n[r]
chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê…tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương người thái thượng: Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng[r]
Bài viết nhằm lý giải sơ bộ các tác nhân tạo nên đặc điểm ưu trội nói trên của nhà Nho tài tử Nguyễn Công Trứ, và cũng như là “góp lời thiên cổ sự” nhân kỷ niệm 151 năm ngày mất của ông (18/12/1858 – 18/12/2009).
“Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không tiên, không vướng tục Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú. Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” Đối với Nguyễn Công[r]
Cũng một quan điểm tương tự, Trần Ngọc Vương khẳng định tính chất “đa trị” của nhân cách Nguyễn Công Trứ: “Xét cho cùng, đối với người tài tử, tư tưởng Lão Trang hay Phật giáo là những thế năng sống và trong nhiều trường hợp, là những chặng đời chứ không phải là điểm hội tụ, nơi[r]
nhiệm, phận vị. Những quan niệm như “tam cương, ngũ thường”, “tam tòng, tứđức”,... trói buộc con người vào trách nhiệm. Con người không có quyền sốngcho cá nhân mình. Và theo thời gian, nó thành ra một thứ hành vi tự nguyện, tựgiác, một sự tự ý thức của mỗi người. Nguyễn Công Trứ
thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn: Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào Đã sa xuống thấp lại lên cao. Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế. Trời đất cho ta m[r]
hiện của sự tiến bộ ấy nhưng đó cũng vẫn là một lời đánh giá đáng trân trọng dành chothơ luật của một nho sĩ tài tử, tài hoa.Riêng về hát nói Nguyễn Công Trứ, chúng tôi không thấy có ý kiến nào khác ngoàisự khen ngợi và trân ữọng dành cho những tác phẩm thuộc thể loại này của nh[r]