Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng các bộ phận của cây cỏ để làm ranhững bài thuốc phòng và chữa bệnh dưới dạng thuốc sắc, thuốc viên. Ngày nay,khi y học đã có những tiến bộ vượt bậc, tây y cũng không thể thay thế hoàn toànđược các vị thuốc của tự nhiên, vì trong bản thân từng cây, từng vị thuốc đ[r]
hệ). Mặc dù còn một số điểm cần bàn luận và chỉnh lý bổ sung thêm nhưngbảng phân loại thảm thực vật Việt Nam của Thái Văn Trừng từ bậc quần hệ trởnên gần phù hợp với hệ thống phân loại của UNESCO (1973).Đặng Kim Vui (2002) [45], nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồisau nươn[r]
tháng 2, cây nảy lộc đâm chồi. Quá trình rụng lá càng kéo dài kéo theo quá trình đâm chồi cũng kéo dài và bật chồi không đều. Những cành dinh dỡng rụng lá muộn, nảy lộc đâm chồi cũng chậm hơn và thờng không có khả năng ra hoa. Những cành sinh sản rụng lá sớm hơn và có khả năng ra hoa. Nh vậy sự rụng[r]
Cổ vi khuẩn và Vi khuẩn thật thuộc Còn T. Cavalier-Smith (1993) thì lại đề xuất hệ thống phân loại 8 giới: Vi khuẩn thật (Eubacteria), Cổ vi khuẩn (Archaebacteria), Cổ trùng (Archezoa), Sắc khuẩn (Chromista), Nấm (Fungi), Thực vật (Plantae) và Động vật (Animalia). Theo R. Cavalier-Smith thì[r]
bụt. - Bộ nhụy dính với nhau hoàn toàn: cây họ Cà, họ Cam. 96 - Bộ nhụy dính với nhau phần vòi và núm nhưng bầu tự do: cây Dừa cạn. Số lượng lá noãn hình thành nên bộ nhụy thường là 3 ở các cây thực vật 1 lá mầm; 5,4 hoặc là 2 ở các cây thực vật 2 lá mầm hoặc có khi chỉ là một đối với[r]
quá trình phát triển của cây, hàm lượng cellulose trong vách tăng lên, nghĩa là mạng lưới cellulose ngày càng trở nên dày thêm. Đối với đa số tế bào thực vật bậc cao (trừ tế bào của mô phân sinh) trong giai đọan phát triển về sau sẽ hình thành màng thứ cấp. - Vách thứ cấp: vách thứ cấp được t[r]
cành sinh sản (cành phân hoá hoa) là một yếu tố quyết định tới năng suất quả hồng sau này. Để tìm hiểu ảnh hởng của việc xử lý ethrel đến tỷ lệ cành dinh dỡng và cành sinh sản trên cây hồng, chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu: tỷ lệ cành dinh dỡng, tỷ lệ cành sinh sản, tỷ lệ càn[r]
trọng d = 1,04-1,06), có tính chiết quang hơn nước, khi bị đun nóng tới 50oC - 60oC thì tế bào chất sẽ mất khả năng sống. Tuy vậy, tế bào chất của một số hạt, quả khô và của một số bào tử có thể chịu được nhiệt độ cao hơn (từ 80oC - 100 oC). Tế bào chất là một dạng chất keo nhớt, cấu tạo bởi những p[r]
Lớp Tảo silic - BACILLARIOPHYCEAE Tảo silic là những tảo đơn bào, tập đoàn, sống phù du và sống bám; chúng có thể sống quang dưỡng, tự dưỡng và dị dưỡng. Vách tế bào cấu tạo bằng chất silic và cấu trúc dạng một chiếc hộp gồm hai nắp lồng vào nhau. Nắp trên (epitheca) gồm mặt vỏ trên và dải bên trên;[r]
trên cây mẹ rồi mới tách khỏi cây mẹ (chiết Cam, Chanh, Sapôchê...). Hình thức sinh sản này giúp cho việc nhân nhanh các giống cây trồng. c. Ghép cành Là hình thức lấy một chồi hoặc 1 cành của cây này đem ghép lên gốc của cây khác cùng chi hoặc cùng loài để cho cành đó vẫn tiếp tục sống. Cành cây ho[r]
3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thành phần loài thực vật ở các trạng thái nghiên cứu 3.1.1. Thảm cây bụi thấp sau nơng rẫy Bảng1: Số họ, chi, loài ở thảm cây bụi thấp sau nơng rẫy TT Ngành Họ Chi Loài Số họ Tỉ lệ % Số chi Tỉ lệ % Số loài Tỉ lệ % 1 Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) 28 84,9 39[r]
nhiễm bệnh, tạo ra các nguồn nguyên liệu di truyền phong phú hay các sảnphẩm chuyển gen mang các đặc tính mong muốn, cho phép mở rộng nguồn gencủa các loài thực vật, tạo ra các dòng tế bào sản xuất mới mang các đặc tính ditruyền ưu việt của cả bố và mẹ. Một trong những kỹ thuật để chứng minh[r]
Bộ nhuỵ (Nguồn: T. Elliot Weier, C. Ralph Stocking, 1982) 90 với nhau, gọi là đài hợp (hoa Rau muống, Dâm bụt), trong trường hợp đó phần dính lại làm thành ống đài, phần trên gọi là thùy của đài, ống đài có thể dài hoặc ngắn và khác nhau tùy loài... Số lượng các lá đài ở trong hoa có thể thay đổi th[r]
đến khử NADP+xuất hiện điện thế và tạo ATPtạo thành NADPH+PTTQ: 12H2 O + 18ADP + 18Pi + 12NADP == 18ATP + 12NADPH + 602 Khái niệm :Pha sáng là pha chuyển hóa năng lượng ánh sáng đã được diệp lục hấp thụ thành năng lượng củacác liên kết hóa học trong ATP và NADPH. Pha sáng ở các nhóm thực vật[r]
. Mô phân sinh sơ cấp Mô phân sinh sơ cấp có nguồn gốc trực tiếp từ các tế bào hợp tử. Ở trong cây, mô phân sinh sơ cấp thường nằm ở đầu tận cùng của thân, cành, rễ hay nằm ở gốc của mỗi lóng ở trên thân . Mô phân sinh sơ cấp có một vai trò hết sức quan trọng: nhờ hoạt động của mô này mà tất cả các[r]
hoặc 3 hay bội số của 3 (hoa cây thực vật 1 lá mầm). Số lượng cánh hoa thường tương ứng với là đài, từ đó ta có các khái niệm về hoa mẫu 3, mẫu 4, mẫu 5. Hình 4.2. Một số kiểu đài hoa 1,2. Đài hợp hình ống; 3. Đài phụ và đài chính đều, hợp; 3. Đài hình môi; 5. Đài biến đổi thành lông;
+Lớp nhu mô vỏ: nằm phía trong của mô dày, gồm những tế bào có dạng hình tròn, hình đa giác (trên lát cắt ngang) và hơi kéo dài ra (trên lát cắt dọc), giữa các tế bào có các khoảng gian bào, tế bào nhu mô vỏ thường chứa nhiều diệp lục, do đó thân non thường có màu lục, ngoài ra còn chứa tanin, tinh[r]
+Gốc lá: gốc lá có hình dạng rất đa dạng, có thể có dạng hình tim, hình thận hoặc hình mũi mác, gốc lá có thể nhọn, tròn hoặc lõm... +Chóp lá: chóp lá của lá cây thực vật hạt kín rất đa dạng, có thể phân biệt các kiểu chóp lá sau của thực vật hạt kín: chóp dài xoắn, chóp nhọn ké[r]
Cấu tạo giải phẫu của lá cây thực vật hai lá mầm Đa số cây thực vật hai lá mầm đều có cuống lá và phiến lá phân biệt với nhau tương đối rõ rệt, do đó trong cấu tạo giải phẫu cũng phân biệt hai phần này. a. Cấu tạo của cuống lá Cuống lá của nhiều cây thường phân biệt mặt trên và[r]
Cấu tạo giải phẫu của lá cây thực vật hai lá mầm Đa số cây thực vật hai lá mầm đều có cuống lá và phiến lá phân biệt với nhau tương đối rõ rệt, do đó trong cấu tạo giải phẫu cũng phân biệt hai phần này.