Những sự kiện nóng trong phê bình văn học Trung Quốc 2006 Từ số 2 năm 2005, Văn nghệ tranh minh bắt đầu liên tiếp triển khai cuộc thảo luận liên quan tới văn học “thế kỷ mới”, thu hút các học giả Trương Quýnh, Trần Hiểu Minh, Trương Di Vũ, Trình Quang Vĩ, Mạnh Phồn Hoa, Hạ T[r]
bình mới được du nhập, nhất là sau khi xuất hiện phê bình văn hoá, sựphân rẽ ngày càng lớn.Đào Đông Phong (Khoa Trung Văn - Đại học Thủ Đô): Tôi muốnnhìn nhận vấn đề từ góc độ lý luận xã hội mang tính hiện đại và nguy cơđại tự sự hiện đại hoá. Phê bình văn học thập kỷ 80 sở dĩ x[r]
mới thực sự là "người môi giới", là bà đỡ cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ. Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng khôn[r]
Trước những bấn loạn của xã hội lúc bấy giờ, chàng trai trẻ Nguyễn Công Trứ đã nhờ đạo đức và tư tưởng Nho gia “an bần lạc đạo” mà mặc dù gia cảnh nghèo nàn, chàng vẫn luôn “lạc quan và hy vọng”. Từ chỗ ghét bọn phú hộ giàu có, coi khinh chúng, Nguyễn Công Trứ đề cao thú hành lạc (cầm kỳ thi[r]
học của Hoài Thanh. Tác giả đã nghiên cứu, xem xét Hoài Thanh trên nhiềuphương diện: hành trình tư tưởng, quá trình sáng tác, phương pháp phê bình,phong cách phê bình … Ông cho rằng, Hoài Thanh đã chuyển biến mạnh mẽtừ một nhà phê bình ấn tượng theo quan điểm nghệ thuật v[r]
nguyên, như tốt/xấu, thiện/ác, trắng/đen…hay phổ biến/cá biệt, bản chất/hiện tượng, tất yếu/ngẫu nhiên, nguyên nhân/hậu quả, nội dung/hình thức…là những cặp đối lập đẳng cấp không bình đẳng, yếu tố trước bao giờ cũng có vai trò quan trọng hơn yếu tố sau. Như thế muốn nhận thức chân lí cần loại bỏ đố[r]
Lý luận phê bình văn học phương Tây là một bộ phận không thể tách rời của văn học cũng như không tách rời các trào lưu lý luận văn học của nhân loại, bởi quá trình hình thành, phát triển của nó gắn liền với quá trình tự ý thức của văn học trong sự hình thành và phát triển của loài người. Trong cuộc[r]
Võ Phiến cho rằng “thời kì 1954-1975 gặp cái rủi ro hiếm thấy là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Trên báo chí vẫn có những bài điểm sách, giới thiệu, phê bình; nhưng hầu hết là bài của giới sáng tác nhận xét lẫn nhau”(3). Còn Lữ Phương khi[r]
nhưng phức tạp và có những giới hạn nhất định. Song, do chịu sự tác động sâu sắc bởi những biến động của đời sống chính trị xã hội và văn hóa, đặc biệt là ảnh hưởng của lý luận - phê bình văn học phương Tây và cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, lý luận - phê bình văn học<[r]
Những sự kiện nóng trong phê bình văn học Trung Quốc 2006 Bên ngoài, giới văn học trong năm 2006 không có sóng gió dữ dội nhưng trên thực tế, sóng ngầm vẫn trào dâng. Những nhân tố dựa trên địa vị văn hoá, thước đo giá trị, quan hệ lợi ích, rồi tuổi tác, giới tính giữa nhữn[r]
Kiều Thanh Quế - Nhà nghiên cứu phê bình văn học Kiều Thanh Quế (1914-1947), quê ở làng Hắc Lăng (nay là xã Tam An), huyện Long Đất, thị xã Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông còn có bút danh khác như Mộc Khuê, Tô Kiều Phương, Quế Lang, Nguyễn Văn Hai. Trong công trình Mảnh vụn văn học
quyền và sắc thái thần bí đối với văn học, sau đó nhấn mạnh đến sức mạnh xãhội chế ước sự ra đời của văn học, trở về với sự nghiên cứu chính trị, lịch sửđối với văn học. Lý luận này cho rằng, mọi lý luận đều được quyết định bởihình thái ý thức xã hội, chính trị, đáp án này trên[r]
Quan niệm về thơ trong Lýluận Phê bình văn học đô thịmiền Nam 1954-1975Thơ là một trong những loại hình kỳ diệu nhất, “cõi thơ là cõi bồngphiêu” (Bùi Giáng). Đi tìm bản thể của thơ luôn là một hành trình đầy bí ẩn.Chính vì lẽ đó, ở bất cứ nền văn học nào, việc kiến tạo hệ thống[r]
Ảnh hưởng phương Tây đến lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975 . Trong đội ngũ những nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam , có thể nói Nguyễn Văn Trung là một trong những nhà lý luận - phê bình văn học "có tầm ảnh hưởng lớn"([r]
và anh sẽ không giữ được mình sa vào dòng xoáy thương nghiệp để trở thành tù binh của nó; mặt khác, "khốc bình" cũng liên quan với tâm lý thời đại, tâm lý "phá hoại", méo mó nào đó của khách bàng quan trong nội bộ giới văn học. Không khí thời đại có đầy rẫy sự mong đợi đối với phủ định và phê[r]
nghiên cứu văn học, thi pháp học đã thực sự được khẳng định và phát triển ởViệt Nam vào thế kỷ XX. Trong số các công trình lí luận về thi pháp, chúngtôi chú ý hơn cả là cuốn Thi pháp hiện đại của Đỗ Đức Hiểu, tác giả đã giớithiệu về thi pháp học một cách khá toàn diện qua việc xem xét theo ph[r]
nước thành viên của Liên hiệp quốc. Đây cũng là một trong rất nhiều biểu hiện về sự cộngtác giữa các nước, tạo điều kiện hợp tác quốc tế, thúc đẩy văn học thiếu nhi, và sự nghiệpgiáo dục trẻ thơ ngày càng phát triển, trong sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của toàn xã hội,trên toàn thế giới.Cho đ[r]
lạnh nhạt. Từ ngày 9 tháng chín đến ngày 9 tháng mười, vở kịch chỉ được diễn có chín buổi.Nhưng dần dần về sau nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật chân chính của vở kịch đã khắc phục được sự lãnh đạm của công chúng, và từ buổi tái diễn ngày 14 tháng mười hai năm 1668 đến ngày Môlie mất (17-2-1673[r]
- Phần lớn truyện ngắn, tiểu thuyết viết theo lối mới còn vụng về, non nớt.- Thành tựu chủ yếu là thơ văn của các chí sĩ CM: Phan Bội Châu, Phan ChâuTrinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế Nhưng thể loại, ngôn ngữ, thi phápvẫn thuộc phạm trù văn học trung đại. Giai đoạn thứ hai (1920 → 1930)-[r]