thơ. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là con chữ vô hồn mà là hiện thân của tưtưởng, tình cảm, là mối tương giao giữa nhà thơ với người đọc, là sự khẳngđịnh phẩm chất thi nhân của nhà thơ giữa cuộc đời. Vì “ngôn ngữ thơ tự nó đãcó một giá trị nhiệm màu trong sự truyền đạt cảm thông” (Cao Thế Dung)(43).Với[r]
Ảnh hưởng phương Tây đến lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975 . Trong đội ngũ những nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam , có thể nói Nguyễn Văn Trung là một trong những nhà lý luận - phê bình văn học "có tầm ả[r]
không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu. Muốn làm được vai trò ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác[r]
Luận với nhan đề “Hoài Thanh với chuyện sống và viết của một nhà phêbình”dưới dạng chân dung văn học. Trong bài viết, tác giả đã phân tích thấuđáo mối quan hệ hữu cơ giữa con người tư tưởng - văn chương Hoài Thanh,đi sâu phát hiện những đặc sắc trong phong cách phê bình của Hoài Thanh.[r]
Phê bình văn học TrungQuốc thập kỷ 90Song giới phê bình đâu chỉ có các thày và học trò trong Học viện, đâu chỉcó một số người bám trụ phê bình trong không gian thuần văn học, bao gồmmột số ấn phẩm phê bình văn học nghiêm túc. Đương nhiên, âm thanh của[r]
bình mới được du nhập, nhất là sau khi xuất hiện phê bình văn hoá, sựphân rẽ ngày càng lớn.Đào Đông Phong (Khoa Trung Văn - Đại học Thủ Đô): Tôi muốnnhìn nhận vấn đề từ góc độ lý luận xã hội mang tính hiện đại và nguy cơđại tự sự hiện đại hoá. Phê bình văn học thập kỷ 80 sở dĩ x[r]
hồn của chàng trai trẻ tuổi những tình cảm yêu nước. Vận mệnh đã gắn chặt Kiều Thanh Quế với văn chương khi những truyện ngắn đầu tay được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy vào những năm 1929 với bút hiệu Quế Lang. Tinh thần chống Pháp không chỉ thể hiện bằng những bài viết đăng trên báo mà qua hành độn[r]
ca nói riêng. Nhưng trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn họcở miền Nam, đó không còn là hiện thực thuần túy mà là hiện thực của ảodiệu, hiện thực tâm linh, hiện thực của cõi mơ, của vô thức. Và đây mớichính là thế giới của thơ vì “Thơ cũng huyền diệu như Trời” (CharlesHenri[r]
Lý luận phê bình văn học phương Tây là một bộ phận không thể tách rời của văn học cũng như không tách rời các trào lưu lý luận văn học của nhân loại, bởi quá trình hình thành, phát triển của nó gắn liền với quá trình tự ý thức của văn học trong sự hình thành và phát triển của loài người. Trong cuộc[r]
Hàn Hàn sao lại cạn tàu ráo máng đến thế? Câu trả lời của Hàn Hàn sẽ giống như của bọ cạp: vì đây là website liên kết. Mà tôn chỉ chủ nghĩa liên kết là lật ngược và phản bác. Đương nhiên quan hệ tượng trưng của câu chuyện này cũng có thể đảo lại: quần thể văn học lứa sau 8X là con chẫu chàng,[r]
Sau đó, bài Mấy điểm suy nghĩ về phản đối và xây dựng môn văn nghệ học trước mắt của Chu Lập Nguyên là nhằm trả lời khá toàn diện về một loạt bài, trong đó có bài Suy ngẫm lại thẩm mỹ hoá cuộc sống thường nhật với môn văn nghệ học của Đào Đông Phong. Bài viết thừa nhận những sáng tạo mới về lí luận[r]
Giải cấu trúc là trào lưu tư tưởng bao quát một phạm vi rộng lớn, từ triết học, xã hội học, văn hóa học, phương pháp luận cho đến các lĩnh vực cụ thể nhưchủ nghĩa hậu thực dân, phê bình nữ quyền. Xét về phương diện triết học và thếgiới quan thì giải cấu trúc là một thái độ đối với nhận thức,[r]
nhất đó là vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết. Theo Trần Thanh Hiệp, trong tiểu thuyết vấn đề quan trọng "phải là vấn đề nhân vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt con người trong các nhân vật của tiểu thuyết (…) Trong tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể,[r]
Mở cửa ra nước ngoài là cần thiết. Nhưng mở cánh cửa quá khứ của nền lý luận - phê bình văn học dân tộc, trong đó có bộ phận lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của lý luận - phê bình văn học phương Tây cũng là một[r]
Ảnh hưởng phương Tây đến lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975 1. Khi nghiên cứu một nền văn học, không thể chỉ nói đến sáng tác mà không nói đến hoạt động lý luận- phê bình. Bởi lẽ, tác phẩm văn học chỉ thật sự tồn sinh khi được người đọc[r]
với những thắng lợi oanh liệt chống ngoại xâm, những chính sách cởi mở và những mâu thuẫn nội tại của chế độ; triều đại Gia Long khôi phục trật tự phong kiến, tăng cường chuyên chính, phản dân, phản nước và sự phản kháng yếu ớt của dân chúng. Nguyễn Du đã chứng kiến “những điều trông thấy” trong gia[r]
nguyên, tàn bạo và dẫm chân một chỗ. Còn Trần Thiện Đạo có tinh thần nhị nguyên, thiếu mềm dẻo, giẫm chân tại chỗ mà không biết. Đó là mâu thuẫn và ảo tưởng"(24). Còn ở bài viết Nhà văn và nhà trí thức (Bách khoa thời đại số 239 /1966), Nguyễn Trọng Văn đã phân tích vai trò, trách nhiệm của nhà văn[r]
1. Lập dàn ý (theo phần I)2. Đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cánh mạng tháng Tám 1945a, Khái niệm “văn học hiện đại” được dùng trong bài học được hiểu theo quan niệm đối lập với hình thái văn học thời trung đại.Từ đầu thế kỉ XX, nền văn học[r]
lạnh nhạt. Từ ngày 9 tháng chín đến ngày 9 tháng mười, vở kịch chỉ được diễn có chín buổi.Nhưng dần dần về sau nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật chân chính của vở kịch đã khắc phục được sự lãnh đạm của công chúng, và từ buổi tái diễn ngày 14 tháng mười hai năm 1668 đến ngày Môlie mất (17-2-1673[r]