MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Là một trong hai thành phần nghĩa quan trọng của câu, nghĩa tình thái luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm tìm hiểu chuyên sâu của giới nghiên cứu ngôn ngữ. Trong hệ thống từ loại tiếng Việt có một nhóm từ có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện nghĩa tình thái, đặc biệt l[r]
thuyết cho phép những chất liệu đời thường ùa vào văn học. Không cònnhững thứ ngôn ngữ kiểu cách, lễ nghi mà thay vào đó, ngôn ngữ thông tục,suồng sã được hiện diện với đầy đủ góc cạnh, được ý thức bằng tư thế dânchủ, bình đẳng giữa người với người.Trong văn xuôi đương đại, trước đó, ta bắt gặp thứ[r]
1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học và ngôn ngữ là hai phạm trù có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, văn học là nơi ngôn ngữ được bộc lộ và tỏa sáng còn ngôn ngữ là phương tiện để các tác phẩm văn chương thai nghén và hình thành. Vì thế việc dựa vào các lý thuyết ngôn ngữ để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu vă[r]
tượng người trần thuật từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ hai, thứ ba làmcho các ñiểm nhìn không theo một lôgic tâm trạng nào.Đặt nhân vật vào lập trường ñối thoại, Nguyễn Huy Thiệp ñãñể cho nhân vật của mình trong khi ñối thoại phải ñưa ra chính kiếnriêng, không bị áp ñặt bởi kẻ kh[r]
Có thể thấy rằng sự kết hợp yếu tố tự luận – thơ trong truyện ngắn là một thủ pháp cũng là một đặc điểm sáng tạo có tính mới lạ và độc đáo trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Thật không khó để có thể bắt gặp hiện tượng này trong hầu hết các truyện của ông. Đây không phải là một nét quá mới nhưng b[r]
1. Lí do chọn đề tài Văn học và cuộc sống là vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người. Bởi vậy mà những gì văn học phản ánh luôn là sự hướng về cuộc sống con người với muôn mặt trắng đen, phải trái, tốt xấu, đúng sai để rồi từ đó độc giả nhận ra chính mình trên từng trang viết. Bức tường n[r]
1. Lí do chọn đề tài: Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc nửa sau thập kỉ 80 của thế kỉ XX trên văn đàn Việt Nam xuất hiện một hiện tượng văn học lạ, độc đáo, gây nhiều tranh cãi “ hiện[r]
mẫu của con người đích thực” [20; 460]. Còn Lê Minh Hà đã khắc hoạ chândung Nguyễn Huy Thiệp như sau: “Gương mặt ông nhàu. Tôi biết rằng có thểông không nhất thiết trải qua toàn bộ những cảnh đời mà nhân vật của ôngđã trải” [20; 488]. Ngoài ra, khuynh hướng tiếp cận và đánh giá[r]
gai góc mà nở hoa để cho người đời làm thơ truy tặng. Nhà văn đạo đức chânchính của chúng ta sẽ khoá cái mồm hồn nhiên của lũ trẻ con để chúng không2được phép nói ra cái sự thật trần trụi kia. Gã nhà thơ kiêm diễn viên đóng vaiChiêu Hổ trong "Chút thoáng Xuân Hương" nhận xét hồ đồ, miệt thị vănchươn[r]
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI1.1. Sự đổi mới của truyện ngắn đương đại Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới có nhiều thành tựu đáng khẳng định, trong đó đáng chú ý là những cách tân ở thể loại truyện ngắn với sự chuyển đổi hệ hình tư duy, từ tư duy sử thi sang tư duy thế sự đời tư và theo đ[r]
bằng cách phối điệu bằng/trắc. Nhưng nếu theo mô hình sắp xếp thanh điệu trong thơ lụcbát của Dương Quảng Hàm và Lý Toàn Thắng thì trong lục bát Đồng Đức Bốn có nhiềubiến cách tài hoa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ.chương 4: cấu tứ và Ngôn từtrong thơ lục bát đồng đức bốn4.1. Cấu tứ và ngô[r]
Không có vua góc nhìn phân tâm học. Phân tích và dẫn chứng từ tác phẩm Không có vua của NguyễN Huy Thiệp, từ góc nhìn cơ bản nhất của phân tâm học, để cho người đọc một cách nhìn đúng đắn và toàn vẹn nhất.
Khi nhắc đến các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta không thể không nhắc đến các sáng tác trong mảng đề tài viết về lịch sử của ông. Với những quan điểm và cách nhìn nhận độc đáo về lịch sử của mình , nhà văn đã thành công đưa cái” tinh thần hoài nghi hiện đại chủ nghĩa” vào trong các sáng tác[r]
Đây là bài nghiên cứu về Giọng vô âm sắc trong một số truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986, Khảo sát qua các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và Ngô Tự Lập. Các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp như: Tướng Về Hưu, Không Có Vua, Muối Của Rưng. Các tác phẩm của Ngô Tự Lập như: Thợ Đào Đá Truyền Kiếp, Đợi Bạn, B[r]