LỜI MỞ ĐẦU Có thể nói Triết học là môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử, khi xã hội phân chia thành giai cấp, chế độ chiếm hữu ra đời và phát triển đã có triết học. Sự phát triển của triết học là một quá trình kế thừa và chọn lọc các quan điểm tư tưởng của nhân loại. Cái sau kế thừa và phá[r]
một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh. Điều đó dẫnđến kết quả sau cùng ông cũng dừng lại ở nửa đường, nửa dưới thì duy vật, nhưng nửatrên thì lại duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội: “. Ăng-ghen nhận định: “Phoi-ơ-bắc đã đập tan hệ thống Hêgh[r]
mà còn là sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại. Chủ nghĩa Mác, triết học Mác trước hết là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học loài người, là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài ng[r]
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC &VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Nhắc đến Triết học thì có thể nói ngay đến Triết học Mác- Lênin với Chủ nghĩa duy vật hiện đại. Song mỗi một tư tưởng, một vấn đề thành công luôn cần có một quá trình phát triển lâu dài và[r]
người đã sáng tạo ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hai như các luận điểm quan trọng của ông về phép biện chứng được[r]
hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của trời đất, học đem trật tự của xã hộigán cho giới tự nheien, rõ lại dựng hình thức bịa đặt để chứng minh cho sựhợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội. Điều này phản khoa học.Tóm lại, học thuyết âm dương đã phản ánh rõ khuynh hướng duy vật vàbiện chứng à[r]
hóa và giáo dục, và quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo và bồidưỡng nhân tài cho đất nước. Chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng đãlàm lay động trái tim và khối óc của biết bao con người nhưng vì không dựavào quần chúng nhân dân mà dựa duy nhất vào tầng lớp thống trị nên nó[r]
có được thời cổ đại thậm chí tại Ấn Độ phận giá còn bị sụp đổ. Còn ở phương tây là sự bao trùm của lệnh viện phán khoa học. c) Phép biện chứng tây Âu thế kỷ XV - XVIII Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII) sự trưởng thành của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang ý nghĩa độc đáo. Phép[r]
loài người; một xã hội hoàn thiện, một “nhà nước” hoàn thiện, đó là những cái chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng thôi 2.3.2) Hạn chế Phép biện chứng Hêghen về thực chất là tích cực và cách mạng, nhưng nó lại bị giam hãm trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của <[r]
Lịch sử triết học thế giới ra đời và phát triển đến nay gần 3000 năm. Từ những năm 40 của thế kỷ XIX, lịch sử triết học thế giới bước sang trang mới với sự ra đời của Triết học Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Đó là một cuộc cách mạng trong triết học, làm cho triết học mang bản chất mới.Trước C.[r]
Theo tinh thần này, có thể hiểu, dưới chủ nghĩa xã hội, kể cả trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng cần phải xây dựng xã hội dân sự là xã hội của những con người tự chủ, giàu tính người, đoàn kết thúc đẩy phát triển và thực hành quyền lợi cộng đồng, chứ không phải những con người cá[r]
quan điểm duy vật để giải thích các hiện tượng tự nhiên, còn khi chuyển sanglĩnh vực lịch sử xã hội thì ông không còn đứng vững trên quan điểm duy vật nữamà sử dụng quan điểm duy tâm để giải thích. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mácđã làm được điều trước đó không ai làm được, đó là mang lại c[r]
Một cách khái quát có thể hiểu triết học kinh viện như một kiểu triết học tôn giáo, được đặc trưng bởi sự lệ thuộc có tính nguyên tắc vào thần học, sự liên kết các tín điều với phương pháp của lý trí và sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề lôgíc, nhất là lôgíc hình thức. Triế[r]
hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông lại rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý định đưa ra nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử. IV. VAI TRÒ CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOI Ơ BẮC Đ[r]
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và tr[r]
TIỂU LUẬN TRIẾT PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Lịch sử triết học cổ điển Đức đã sản sinh ra nhiều nhà triết gia lớn của nhân loại như Immanuel Căntơ, Giôhan Gốtliếp Phíchtơ, Phrieđrích Vinhem Giôdép Senlinh, Phrieđrích Hêghen, Lútvích Phơiơbác[r]
diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn", “tính có trước”. Ở chỗ khác Feuerbach nói thêm: "Chân lý, thực tiễn, tính cảm giác đồng nhất với nhau. Chỉ bản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực tiễn”. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó[r]
không có chất nuôi ðạo ðức" ðã ðýợc Ãngghen ðánh giá rất cao bởi vì theo quan SVTH: Phan Thanh Trí Tâm GVHD: TS. Bùi Văn Mưa NHÓM 9– ĐÊM 3 – KHÓA 22 Trang 14 ðiểm ðó thì ðiều kiện quy ðịnh suy nghĩ và tý týởng của nó là tiền ðề cho lý luận về cách mạng trong triết học Mác Qua[r]
thấp hơn mọi sự phê phán, nhưng vẫn là đối tượng của sự phê phán” (tr572)trong khi đó, nhân dân lại không dám phê phán chống lại cái trật tự ấy, mà camchịu làm “nô lệ ngoan ngoãn của một kẻ nhỏ hơn La Mã, nô lệ của Phổ và củaÁo, của bọn địa chủ quý tộc và bọn phi-li-xtanh đã chai sạn rồi” (tr[r]
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Triết học cổ điển Đức (nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX) được mở đầu từ hệ thống triết học của Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách[r]