không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đ• không lý giải được nguồn gốc của vận động. Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là không thể b[r]
Đồng thời đặt quá trình phát triển của hiện tượng trong mối quan hệ nhiều hiệntượng tác động qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận độngcủa chúng. Bằng phương pháp lịch sử, có thể cho phép chúng ta dựng lại bức tranhkhoa học của các hiện tượng, các sự kiện lịch sử đã xảy ra.[r]
với hành động của mình, tức là dù có làm sai đi chăng nữa thì họ cũng không có vấnđề gì cả, vì vậy mà không có lí do nào khiến họ thực hiện kế hoạch một cách tối ưunhất. Vấn đề mà cả hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu đượcấn từ trên xuống. Ở giai đoạn này, kinh tế quốc[r]
Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin để giải thích nguyên nhân của vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đan[r]
Phật học Trung Hoa phát triển trên cơ sở của Huyền học, trên quan điểm triết học Lão – Trang. Vấn đề “hữu vô”, “sắc không” rất được quan tâm và đã được đem ra tranh luận sôi nổi qua nhiều thời đại. Phật học Ấn Độ chứng minh tình hư vô của sự vật ở chỗ nó hốt sinh hốt diejey, luôn luôn biến thiên chu[r]
được nâng lên. Trong giảng dạy khi dạy những đơn vị kiến thức khó, khôngphải ai cũng tự tin đứng trên bục giảng. Vì vậy, tôi đã đọc và nghiên cứu tàiliệu rất nhiều, suy nghĩ là làm thế nào để tìm và vận dụng một số phươngpháp phù hợp với bài học và đối tượng học sinh từng lớp để học sinh dễ h[r]
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM1.Quá trình thâm nhập Đạo giáo vào Việt NamĐạo giáo từ một học thuyết trở thành một tôn giáo, thờ và tôn Lão Tửlàm giáo chủ, gọi là Thái Thượng Lão Quân, coi như là hóa thân của Đạogiáng thế. Đạo giáo truyền sang Việt Nam, chia thành hai phái: Đạo giáo Phùth[r]
Vào thế kỳ thứ X TCN, xã hội công xã nguyên thủy tan rã, Hy Lạpchuyển mình sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Cho đến thế kỷ thứ VI, Thứ VTCN xã hội chiến hữu nô lệ ở Hy Lạp đã đạt tới mức hoàn thiện của nó.Văn minh Hy Lạp đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vựctừ thiên văn họa, toán học c[r]
+ Mặc gia chủ trương “kiên ái”+ Pháp gia chủ chương “pháp luật”+ Các nhà triết học chủ trương nhập thế và làmchính trị.+ Đạo đức theo nho giáo có mục đích làm chínhtrị rõ nét- Các triết gia trung quốc cho rằng chỉ dùng võ lựcvà hình pháp thì thống nhất được đất đai nhưngkhông giữ được lâu cho[r]
7Một số công trình được đăng thành sách: “Thực hiện Quy chế dân chủở cơ sở trong tình hình hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (PGSTS Nguyễn Cúc chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Dân chủvà tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn” (Nguyễn Tiến Phồn - NXB Khoa[r]
Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mờ[r]
+ Khổ đế: Bát khổ - sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt ly khổ (yêunhau mà phải chia lìa nhau), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống gần nhau), sởcầu bất đắc khổ (muốn mà không được).+ Tập đế: mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân (12 nguyên nhân- vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc,[r]
“Ta có ba của báu hằng nắm giữ và bảo vệ: một là lòng từ ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám đứngtrước thiên hạ” (Đạo đức kinh, Chương 67). Vì từ ái cho nên không cưỡng ép vật, vì tiết kiệm cho nênkhông thái quá, không trái với đạo tự nhiên và vì không dám đứng trước thiên hạ cho nên tự n[r]
nền kinh tế lạc hậu, khoa học kĩ thuật thấp, trình độ quản lí còn yếu kém Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ lên CNXH trong điều kiện đất nước chịu đựng những đảo lộn kinh tế và xã hộ`i với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài, tình hình thế giới[r]
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được tạo nên từ thế kỷ VI tr. CN đến thế kỷ VI sau CN, là thành tựu rực rỡ của văn minh phương Tây, tạo nên cơ sở xuất phát của văn hoá châu Âu. Thuật ngữ “triết học” xuất hiện ở đây: Nhà triết học là người yêu chân lý, muốn tìm đến s[r]
A. MỞ ĐẦU Hy Lạp cổ đại có một nền triết học rất rực rỡ. Trước Socrates, nền triết học này bao gồm hai khuynh hướng chính: một, những người phát biểu về thế giới tự nhiên; và hai, các nhà tư biện về thần thánh. Các triết gia trước Socrates chưa có một nghiên cứu cụ thể nào liên quan đến con n[r]
Triết học ra đời từ rất sớm. Những tư tưởng triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện ở khoảng thế kỷ thứ VIII thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Nó bắt đầu ở các nước như Ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ đại, ở Hy Lạp, La Mã cổ đại và ở một số nước khác trên thế giới. Trung cận đông, Ấn Độ v[r]
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân,có nội dung phù hợp với từng đói tượng và đưa vào chương trình chính khoátrong các nhà trường theo cấp học, bậc học.Hai là, kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường sức mạnhquốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy m[r]
Sự tác động của toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những điều kiện thuậnlợi và cơ hội lớn, mà còn mang đến những khó khăn và nguy cơ thách thứckhông nhỏ cho sự phát triển của tất cả các nước, nhất là các nước đang pháttriển. Đúng như nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Toàn cầu hóa kinhtế là