Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên có 5 khổ, mỗi khổ 4 dòng, mỗi dòng 4 chữ, rất đơn giản, miêu tả một cảnh mắt thấy tai nghe ở một góc chợ tết rất ấn tượng với cảm xúc sâu lắng. Ý nghĩa tường minh của bài thơ xem ra rất rõ ràng nhưng nghĩa hàm ẩn lại rất mắc mỏ: Thời gian lặng lẽ trôi đi “mỗi năm…,[r]
Nhà thơ viết lên bài với một tấm lòng yêu thương, trân trọng, ngợi ca những tài năng, sự đóng góp của những lớp người đi trước với nền văn hoá của dân tộc. Trước kia, vào những ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối Tết. Bởi chính vậy, những ông đồ gi[r]
Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành cái di tích của một thời tàn. Nho học đã bị thất sủng, người ta đua nhau chạy theo thời đại với chữ Pháp chữ Tây. Trong những ngày Tết đến xuân về náo nức trên mọi nẻo đường, người yêu thơ lại khẽ lắng mình trong một nhịp thơ giản dị đầy nhân văn của nhà th[r]
Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn[r]
Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài «Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay.» Nhưng mỗi năm mỗi vắng. Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong nghiên sầu... Ông đồ vẫn ng[r]
Vũ Đình Liên đã dành cho số phận các ông đồ những tình cảm sâu sắc, xuất phát từ sự cảm thông rất đỗi chân thành Trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945, bên cạnh những vần thơ tình say mê rạo rực, bên cạnh những cái mới, cái “tân thời”.... vẫn còn những nỗi niềm hoài cổ tha thiết xót xa. Người đọc[r]
Những năm tháng vàng kim mà những người dân luôn thích treo những câuđối chúc tết lấy may mắn cho mọi người đã không còn. Đó đã không còn làmột truyền thống của nền văn hóa dân tộc nữa. Mọi người dần quên đi nhữngnét đẹp này, chỉ còn rất ít người nhớ tới hình ảnh của những ông đồ bênnh[r]
Hai câu thơ sử dụng biện pháo nhân hóa nỗi sầu tủi về thân phận của ông Đồ như đã thấm sâu vào từng sự vật. “Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu”. “Giấy đỏ” là giấy dùng để viết chữ của ông đồ. Thứ giấy ấy rất mỏng manh, chỉ một chút ẩm ướt giấy cũng có thể phai màu. "Giấy đỏ buồn[r]
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN LỚP 8 Câu 1: (4 điểm) Nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết: “… Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong nghiên sầu...”[r]
-Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng, khai thác có hiệu quả nghệ thuật cao. Thể thơ này có khả năng biểuhiện phong phú, có thể tự sự (kể chuyện), miêu tả, triết lí… như nhiều thể thơ khác, nhưng dường nhưthích hợp nhất với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Giọng chủ âm của bài thơ là trầm lắng, ngậm[r]
Phân tích Hai khổ cuối “Ông đồ” Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ vàng mịt mờ để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi vẻ đẹp tài hoa của một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên đã thể hiện một hoài niệm[r]
Có lẽ hình ảnh của các Nho sĩ - thầy đồ bắt đầu xa sút trong xã hội Việt Nam từ cái thuở đôi tượng gỗ: "Thầy đồ và lão bán tơ" ra đời. Qua ánh mắt giễu cợt, mỉa mai của lão bán tơ (trang phục xuyền xoàng, vai đeo túi tiền, tay ầm cái cân) nhìn sang thầy đồ (trang phục chỉnh tề, đầy đủ bầu[r]
Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài ÔNG ĐỒ (Vũ Đình Liên) I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Nhà thơ Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913, quê ở Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương, mất ngày 18 tháng 1 năm 1996. Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài thơ Ông đồ từ phong trào Thơ mới[r]
Bài 1: Trắc nghiệm Câu 1: Hai bài thơ “Nhớ rừng”, “Ông đồ” được sáng tác vào khoản thời gian nào? A. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945. B. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. C. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. D. Trước năm 193[r]
Năm xưa, cách đây hơn nửa thế kỷ, trong những dòng phê bình dành cho Vũ Đình Liên. Hoài Thanh đã gọi bài thơ Ông đồ là một kiệt tác. Ông cho rằng hai nguồn thi cảm chính của Vũ Đình Liên là: "Lòng thương người và tình hoaì cổ. Người thương những cảnh thân tàn ma dại và người nhớ những cảnh cũ n[r]
Ông Đồ đã bị xã hội bỏ rơi, ông đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng bẽ bàng ngồi bên lề phố đông người qua nhưng so với thời đại mới đang sục sôi, bon chen thì ông chỉ là chiếc lá úa tàn đang rụng rơi cay đắng. “Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay” Hình ảnh “lá vàng” gợi đến sự tàn phai,[r]
1. Cảm nhận đư ợc tình bà cháu trong bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt.2. Cảm nhận đư ợc hình ảnh người bà giàu tình thương, giàu đức hi sinh trong bài thơ“Bếp lửa” – Bằng Việt.3. Thấy được nghệ thuật của bài thơ.
CÂU 2 : (1 điểm) Phân tích giá trị biểu đạt của các từ : già, xưa, cũ trong những câu thơ sau : – Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già – Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? (Trích Ông đồ - Vũ Đình Liên) PHẦN II: Bài làm văn ([r]