THI SĨ TẢN ĐÀ VỚI BÀI THƠ TỐNG BIỆT Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan (Tản Đà) Tất cả như một bản trường ca của một đời người ngắn ngủi với trời như bóng như gương ẩn hiện ngập ngừng trùng trùng điệp điệp, rồi thì dư âm bảng lảng… có còn gì không sau Trăm năm trong cõi n[r]
Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. ông là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái[r]
Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú,một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chưtiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bìnhvăn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiênđược kể lại rất sinh động và lí thú.Hầ[r]
Đọc hiểu bài thơ "Hầu trời" của Tản Đà I.Kiến thức cơ bản 1. Tác giả-tác phẩm: - Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu - Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây) - Con người: + Sinh ra va Lớn lên trong buổi giao thời. + Là“người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh[r]
Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xửvốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thốngTản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độcđáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ[r]
1. Tản Đà (1889 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản Đà. Tản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là con trai của quan á[r]
I/ Tìm hiểu chung1. Tác giảTản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản Đà. Tản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là co[r]
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hếtThôi con cứ về mà làm ăn,Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết".Lời khuyên và lời an ủi của nhà trời như là sự cứu cánh cho cuộc sống vốn nghèo nàn và buồn thảm củanhân vật trữ tình ở “hạ giới”. Nhưng đâu đó trong thâm tâm, nhân vật trữ tình đã thầm trách “nhà trời” vềs[r]
Tâm trạng của Tản Đà bao trùm cả bài thơ là tâm trạng buồnchán thất vọng với cuộc đời. Đó là thái độ không dung hoà vớithực tại, là sự phản kháng gián tiếp với cuộc đời.Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng mạn, là ngườichắp viê[r]
Bài thơ Hầu Trời là một tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Tản Đà.Với những chi tiết, tình huống hấp dẫn và pha chút khôi hài, bàithơ đã thể hiện được tri tưởng tượng phóng túng của nhà thơ.Những năm 20 của thế ki XX, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm. u uất, đầy rẫy những cảnh ngangtrái[r]
(...) Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùngNước non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay!”(“Gánh nước đêm” - Trần Tuấn Khải)“Nọ bức dư đồ thử đứng coiSông sông núi núi khéo bia cườiBiết bao lúc mới công vờn vẽSao đến bây giờ rách tả tơi…”(“Vịnh bức địa đồ rách” - Tản Đà)Trong bài t[r]
1. Tản Đà (1889 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu.Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay làBa Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản ĐàTản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là con traicủa quan án sát tỉnh Ninh Bìn[r]
Nước đi chưa lại, non còn đứng không...Để minh chứng cho lời thề non nước vẫn bền chặt với thời gian, tác giả đã dùng những lời lẽ cươngquyết, đanh thép:Dù cho sông cạn đá mòn,Còn non còn nước vẫn còn thề xưa.Toàn bài thơ lời lẽ rất giản dị, chân thành và không có gì là gượng ép hay giả tạo.[r]
chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác. => Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này. b) Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân: - Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương. Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn th[r]
Nhà thơ Tản Đà - một ngôi sao sáng trên thi đàn Việt Nam vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX, sống giữa hai thế hệ Nho học và Tây học, thơ của Tản Đà được xem như viên gạch nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Phong cách thơ Tản Đà đầy cá tính, đặc biệt là tính ngông, bài thơ Hầu Trờ[r]
ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phongcách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trântrọng và khẳng định.Xem thêm:http://tuthienbao.com/forum/showthre...542#post23154[r]
Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe: a Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình: - Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “ Đọc[r]
Những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái xót đau. Những người trí thức có lương tri không chấp nhận nhập cuộc, nhưng để chống lại nó thì đó không phải là điều đơn giản ai cũng có thể làm được. Làm thơ giải sầu, đó là một cách thức khá ph[r]
thơ của ông.II N ỘI DUNG VĂN THƠ CỦA TẢN ĐÀ: 1. Tinh thần dân tộc trong thơ văn Tản Ðà :Tản Ðà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở ông vẫn tiềm tàng một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Tản Ðà không nâng lòng yêu n[r]
nam ai, nam bằng...Hiệu quả của ảnh hưởng này là hết sức to lớn. Nó in dấu vào cả trongcách tổ chức câu thơ cũng như cách lựa chọn từ ngữ. Dưới áp lực của nhạc luật lời thơ cóxu hướng bị tãi ra, nỉ non. Không phải là lối đúc chữ nữa mà thiên sang giãi bày kể lể. Lờithơ thừa thãi nhưng nhờ thế mà cảm[r]